QUY ĐỊNH VỀ HIỆU LỰC ĐỐI KHÁNG VỚI NGƯỜI THỨ BA TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

bởi Apra Law

Để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự 2015 đã quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như thế chấp, cầm cố, đặt cọc,…. Trong các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nêu trên, có quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Vậy, hiệu lực đối kháng với người thứ ba là gì? Cần phải hiểu quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba ra sao?

Trong phạm vi bài viết này, Luật Apra sẽ giải đáp cho Quý khách hàng những thắc mắc và cung cấp thêm kiến thức pháp luật liên quan đến quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.

Hiệu lực đối kháng với người thứ ba là gì?

Hiện nay, Bộ luật dân sự 2015 chưa có quy định khái niệm thế nào là hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Tuy nhiên, ta có thể hiểu hiệu lực đối kháng với người thứ ba là căn cứ pháp lý để xác định quyền truy đòi tài sản bảo đảm và các quyền được thanh toán của bên nhận bảo đảm trong trường hợp nhiều người đều có quyền với tài sản bảo đảm.

Quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015

Điều 297 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:

Điều 297. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

1. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.

2. Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan.”

Theo quy định trên, ta thấy luật quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và quyền của bên nhận bảo đảm khi phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

Thứ nhất, thời điểm biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba được xác định theo hai phương thức: đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc nắm giữ/chiếm giữ tài sản bảo đảm.

– Phương thức đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sẽ áp dụng cho các biện pháp bảo đảm: thế chấp, bảo lưu quyền sở hữu.

Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm. Cụ thể tại Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP quy định về Đăng ký biện pháp bảo đảm quy định các trường hợp phải đăng ký bao gồm: Thế chấp quyền sử dụng đất; Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; Thế chấp tàu biển.

Ví dụ: ông A vay tiền ngân hàng để thực hiện hoạt động kinh doanh. Để đảm bảo khoản vay, ông A thế chấp quyền sử dụng đất của mình với Ngân hàng. Sau khi Ngân hàng thực hiện thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật thì hiệu lực đối kháng với Ng thứ 3 đối với tài sản thế chấp mới phát sinh hiệu lực

Các bên có thể thực hiện thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm tại cổng điện tử: https://dktructuyen.moj.gov.vn/ . Hồ sơ căn cứ theo quy định tại Nghị định 102/2017/NĐ-CP.

– Phương thức bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm áp dụng cho các biện pháp bảo đảm cầm cố, cầm giữ tài sản.

Đối với biện pháp bảo đảm cầm giữ tài sản, thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba được xác định là thời điểm bên cầm giữ tài sản chiếm giữ tài sản. Tuy nhiên trong Bộ luật dân sự hiện nay chưa có quy định cụ thể thế nào là chiếm giữ tài sản. Khái niệm chiếm giữ tài sản chỉ xuất hiện trong biện pháp cầm giữ tài sản sẽ dễ gây nhầm lẫn với khái niệm nắm giữ tài sản. Đây có thể là một thiếu sót của các nhà lập pháp khi xây dựng quy định về cầm giữ tài sản.

Ví dụ: Bên A thuê bên B gia công đồ  nội thất bằng gỗ. Sau khi bên B hoàn thành việc gia công nhưng Bên A không thực hiện việc thanh toán theo đúng thoả thuận ban đầu, lúc này Bên B có quyền chiếm giữ tài sản là số sản phẩm đã gia công xong để yêu cầu Bên A thanh toán. Trường hợp này, hiệu lực đối kháng với người thứ ba có hiệu lực kể từ thời điểm Bên A không thanh toán theo thoả thuận và Bên B phát sinh quyền chiếm giữ tài sản.

Thứ hai, về quyền của bên nhận bảo đảm khi phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Khi phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bên nhận bảo đảm có thể truy đòi tài sản hoặc yêu cầu thanh toán theo thứ tự quy định tại Điều 308, cụ thể như sau:

1. Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:

a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng;

b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước;

c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại khoản 1 Điều này có thể thay đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền.”

Như vậy, hiệu lực đối kháng với người thứ ba được xây dựng nhằm mục đích đảm bảo quyền của bên nhận bảo đảm khi xác lập một giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, cần những điều kiện để hiệu lực đối kháng phát sinh hiệu lực, đặc biệt đối với biện pháp bảo đảm pháp luật bắt buộc phải đăng ký.

Ví dụ: Ông A vay ông B một khoản tiền 3 tỷ đồng, thời hạn trả là ngày 20/10/2020, hai bên ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và không thoả thuận vê việc ông A sẽ phải đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B. Hai bên không đăng ký biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Đến thời hạn trả tiền, ông A không trả, ông B yêu cầu ông A phải chuyển cho mình quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp. Tuy nhiên, ông A đã thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà C. Trong trường hợp này, ông B không thể truy đòi tài sản bảo đảm do không thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất theo quy định nên không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

Trên đây là bài viết tư vấn về “Quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của Bộ luật dân sự 2015” của Công ty Luật TNHH Apra. Quý khách hàng còn thắc mắc về các vấn đề nêu trên và cần được giải đáp, vui lòng liên hệ số hotline để được tư vấn và hỗ trợ.

________________________________

Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ :

CÔNG TY LUẬT TNHH APRA

Địa chỉ: Tầng 7, số 57 Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.

Email: info@apra.vn

Hotline: 024.23486234 – 0948495885

Có thể bạn quan tâm

Để lại bình luận

0948 49 5885