Để khắc phục tình trạng vô sinh và đáp ứng nhu cầu có con của các cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân, pháp luật nước ta đã cho phép những chủ thể trên áp dụng biện pháp thụ tinh trong ống nghiệm (“TTTON”). Vậy, trong trường hợp áp dụng kỹ thuật TTTON thì việc xác định cha, mẹ, con sẽ được thực hiện như thế nào? Trong bài viết dưới đây, Luật Apra sẽ phân tích vấn đề pháp lý về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật TTTON.
Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là gì?
Theo Khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Sau đây gọi tắt là “Luật HNGĐ”): “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Như vậy, có hai phương pháp hỗ trợ sinh sản, đó là:
(i) Phương pháp thụ tinh nhân tạo;
(ii) Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Trong đó, thụ tinh trong ống nghiệm là “sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi” (Khoản 1 Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo). Nói cách khác, thụ tinh trong ống nghiệm là một phương pháp thụ tinh theo đó trứng được thụ tinh bằng tinh trùng bên ngoài cơ thể, trong ống nghiệm, tạo thành phôi. Phôi được nuôi từ 2 đến 5 ngày sau đó chuyển vào trong buồng tử cung của người phụ nữ.
Các trường hợp áp dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, có hai trường hợp được áp dụng phương pháp TTTON, đó là:
Một là, cặp vợ chồng vô sinh muốn có con: Theo Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”. Như vậy, trong trường hợp người chồng vô sinh hoặc người vợ vô sinh hoặc cả hai cùng vô sinh, sẽ được áp dụng phương pháp TTTON.
Hai là, phụ nữ độc thân muốn có con: Theo Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Như vậy, người phụ nữ nào đang không có quan hệ hôn nhân với bất cứ ai theo quy định của pháp luật sẽ được phép áp dụng phương TTTON.
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Thứ nhất, đối với cặp vợ chồng vô sinh: Khoản 1 Điều 93 và Điều 88 Luật HNGĐ quy định việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này sẽ được thực hiện theo nguyên tắc suy đoán pháp lý, cụ thể:
– Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
– Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
– Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Tuy nhiên không phải mọi nguyên tắc xác định cha, mẹ, con nêu trên đều áp dụng đối với cặp vợ chồng vô sinh. Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP quy định: “vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”. Như vậy, trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Thứ hai, đối với phụ nữ độc thân:
Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định “Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Khi đó, người phụ nữ độc thân có thể nhận tinh trùng từ người khác trong trường hợp họ có nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai (Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP) hoặc họ có thể nhận phôi từ người khác trong trường hợp họ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai (Điểm c Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP). Trong cả hai trường hợp này, con sinh ra đều được xác định là con của người phụ nữ độc thân, căn cứ vào Khoản 2 Điều 93 Luật HNGĐ: “Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Căn cứ để xác định mẹ, con trong trường hợp này dựa vào sự tự nguyện và sự kiện sinh đẻ của chính người phụ nữ độc thân.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là, liệu có phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho phôi. Căn cứ vào Khoản 3 Điều 93 Luật HNGĐ: “Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra”. Như vậy, việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được áp dụng đối với người phụ nữ độc thân không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho phôi với người con được sinh ra. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc được quy định tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc”. Điều này cũng nhằm loại trừ những tranh chấp có thể phát sinh trên thực tế về quan hệ cha, mẹ, con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân.
Trên đây là bài viết tư vấn về “Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm” của Công ty Luật TNHH Apra. Quý khách hàng còn thắc mắc về các vấn đề nêu trên và cần được giải đáp, vui lòng liên hệ số hotline để được tư vấn và hỗ trợ.
________________________________
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ :
CÔNG TY LUẬT TNHH APRA
Địa chỉ: Tầng 7, số 57 Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Email: info@apra.vn
Hotline: 024.23486234 – 0948495885
1 bình luận
Thank you for your sharing. I am worried that I lack creative ideas. It is your article that makes me full of hope. Thank you. But, I have a question, can you help me?