Nhãn hiệu là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội nhằm cá thể hóa một loại hàng hóa, một dịch vụ cụ thể giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Qua đó, cho người tiêu dùng biết được về sản phẩm đó. Trên thực tế có rất nhiều cách phân biệt nhãn hiệu khác nhau với nhiều căn cứ, dấu hiệu khác nhau. Song mỗi loại nhãn hiệu lại có những điểm giống và khác nhau nhất định. Bài viết dưới đây sẽ phân tích sự khác biệt giữa nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.
1. Khái niệm
Thứ nhất, nhãn hiệu thông thường. Nhãn hiệu thông thường được định nghĩa theo khoản 16 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (“LSHTT”) như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của cấc tổ chức, cá nhân khác nhau”. Như vậy, nhãn hiệu cần thỏa mãn các điều kiện sau đây: (i) Phải là những dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; (ii) Dấu hiệu đó phải gắn lên sản phẩm, hàng hóa dịch vụ; (iii) Dấu hiệu đó phải có khả năng cá biệt hàng hóa dịch vụ đó với hàng hóa dịch vụ cùng loại của chủ thể khác, thông tin cho người tiêu dùng biết hàng hóa dịch vụ đó của ai.
Thứ hai, nhãn hiệu tập thể. Theo Khoản 17 Điều 4 LSHTT, nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên trong một tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó đối với hàng hóa dịch vụ của cá nhân tổ chức khác không là thành viên của tổ chức đó. Ta có thể hiểu một cách khái quát như sau: Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu của một nhóm các doanh nghiệp (hợp tác xã, tổng công ty,…), trong đó, các thành viên cùng tuân thủ theo quy chế do tập thể đó quy định (về xuất xứ địa lí, nguyên vật liệu; chất lượng, phương pháp sản xuất,…) để có quyền sử dụng nhãn hiệu. Song các thành viên của tập thể đó vẫn có thể có những nhãn hiệu cho riêng mình bên cạnh việc sử dụng nhãn hiệu tập tể. Ví dụ: Nhãn hiệu tập thể Chè Thái nguyên của Hội nông dân tỉnh Thái Nguyên…
Thứ ba, nhãn hiệu chứng nhận. Khoản 18 Điều 4 LSHTT định nghĩa nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Ví dụ nhãn hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao” của Hội doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao thành phố Hồ Chí Minh.
2. Chức năng
Nhãn hiệu thông thường: Chức năng cơ bản nhất của nhãn hiệu là phân biệt các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Nhãn hiệu luôn đi kèm với sản phẩm hàng hóa, trong khi được lưu thông trên thị trường, hay gắn liền với sản phẩm dịch vụ khi được cung cấp cho khách hàng, vì thế người tiêu dùng có thể biết ản sản phẩm đó là do đơn vị nào cung cấp.
Nhãn hiệu tập thể: Nhãn hiệu tập thể giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng hóa, dịch vụ của các thành viên tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của người khác không phải là thành viên tổ chức.
Nhãn hiệu chứng nhận: Nhãn hiệu chứng nhận không có mục đích xác định nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ và không dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với các hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Nhãn hiệu chứng nhận có mục đích chứng nhận giúp người tiêu dùng có thể biết được một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã đáp ứng được tiêu chuẩn của chủ sở hữu nhãn hiệu đó đã đề ra.
3. Chủ thể sở hữu.
Nhãn hiệu thông thường: Khoản 1 Điều 121 LSHTT quy định “Chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc có nhãn hiệu nổi tiếng”. Bất kỳ một cá nhân tổ chức nào cũng có thể đăng ký nhãn hiệu cho hàng hóa dịch vụ của mình nếu thỏa mãn các quy định của LSHTT về nhãn hiệu được quy định ở Điều 72, Điều 73 và Điều 74.
Nhãn hiệu tập thể: Không giống với nhãn hiệu thông thường, chủ sở hữu của nhãn hiệu tập thể, chủ thể đăng ký chỉ có thể là tổ chức. Việc quy định chủ sở hữu của Nhãn hiệu tập thể là tổ chức phù hợp với chức năng của nhãn hiệu tập thể là dung để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên của tổ chức là chủ sở hữu của nhãn hiệu tập thể với hàng hóa, dịch vụ của thành viên không phải là thành viên của tổ chức đó.
Nhãn hiệu chứng nhận: Theo Khoản 4 Điều 87 LSHTT, quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận chỉ thuộc về tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ; có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó; đối với địa danh, danh hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
4. Chủ thể sử dụng nhãn hiệu.
Nhãn hiệu thông thường: Chủ thể có quyền sử dụng nhãn hiệu thông thường là chính chủ sở hữu nhãn hiệu đó và những cá nhân, tổ chức được chủ sở hữu cho phép.
Nhãn hiệu tập thể: Chủ thể có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể là tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật; gồm nhiều tổ chức, cá nhân thành viên tự nguyện gia nhập, hoạt động độc lập với nhau nhưng tuân theo điều lệ và các quy tắc hoạt động chung của tổ chức tập thể, đó có thể là Hiệp hội, Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã, tổng công ty, tập đoàn,… Các thành viên sử dụng Nhãn hiệu tập thể phải được sự đồng ý của tổ chức tập thể và phải tuân thủ theo quy chế chung. Sự tuân thủ các quy định này được thể hiện qua chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà thành viên sử dụng phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng trong quy chế.
Nhãn hiệu chứng nhận: Chủ thể sản xuất kinh doanh sử dụng nhãn hiệu chứng nhận phải được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận cấp phép, xác lập quyền sử dụng nhãn hiệu và phải tuân theo quy định chung được thể hiện trong quy chế sử dụng của nhãn hiệu chứng nhận. Các quy định này đòi hỏi các chủ thể sản xuất kinh doanh phải tuân thủ trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh. Sự chấp hành các quy định được nêu trong quy chế được thể hiện qua chất lượng hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Bất kì chủ thể nào đều có quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận nếu thấy rằng hàng hóa, dịch vụ của mình đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện của chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận đưa ra, thì có thể đề nghị chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
5. Chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu.
Thứ nhất về chuyển quyền sở hữu. Nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể có những đặc điểm, điểm riêng biệt sau đây: Thứ nhất, nhãn hiệu chứng nhận chỉ được chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu cho tổ chức có chức năng tương tự. Đó là những tổ chức không trực tiếp sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà là các quan có thẩm quyền, chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính của hàng hóa, dịch vụ đăng ký. Thứ hai, Nhãn hiệu tập thể cũng chỉ chuyển nhượng quyền sở hữu Nhãn hiệu cho các tổ chức tập thể gồm nhiều thành viên hoạt động độc lập nhưng tuân theo quy chế chung của tập thể mà không được chuyển giao cho các cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa.
Thứ hai, về chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Đối với nhãn hiệu tập thể, không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức, tập thể đó. Đối với nhãn hiệu chứng nhận, chủ sở hữu nhãn hiệu không trực tiếp sử dụng nhãn hiệu chứng nhận mà việc sử dụng do chính cá nhân, tổ chức có các tiêu chí phù hợp.
Trên đây là bài viết tư vấn về “Sự khác biệt giữa nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận” của Công ty Luật TNHH Apra. Quý khách hàng còn thắc mắc về các vấn đề nêu trên và cần được giải đáp, vui lòng liên hệ số hotline để được tư vấn và hỗ trợ.
________________________________
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ :
CÔNG TY LUẬT TNHH APRA
Địa chỉ: Tầng 7, số 57 Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Email: info@apra.vn
Hotline : 024.23486234 – 0948495885
1 bình luận
Your point of view caught my eye and was very interesting. Thanks. I have a question for you.