QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

bởi Apra Law

Trong các quy định pháp luật chuyên ngành có liên quan đến khai thác, sử dụng quyền SHCN, mối liên hệ giữa quy định pháp luật cạnh tranh với quy định pháp luật sở hữu trí tuệ còn nhiều điểm bỏ ngỏ. Xuất phát từ mục đích và đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) thì một số quan điểm cho rằng, giữa Luật Cạnh tranh và Luật SHTT có sự mâu thuẫn với nhau. Nếu Luật Cạnh tranh hướng đến loại bỏ sự độc quyền trên thị trường thì Luật SHTT lại trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền đối với tài sản SHTT để nhằm mục đích ghi nhận, khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.

Qua thực tế thi hành thì quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay đã thừa nhận rằng, giữa Luật Cạnh tranh và Luật SHTT đều có điểm chung, giao thoa và bổ trợ trong mối quan hệ giữa pháp luật SHTT với pháp luật cạnh tranh liên quan đến SHCN và chuyển giao quyền SHCN. 

Ảnh hưởng của quyền sở hữu công nghiệp đối với môi trường cạnh tranh

Như đã phân tích ở trên, xuất phát từ bản chất đặc trưng cũng như lợi thế mà quyền SHCN mang lại cho chủ sở hữu cho nên trong quá trình thực hiện quyền năng được pháp luật thừa nhận, trong mối tương quan với cấu trúc thị trường, tính cạnh tranh của nền kinh tế thì hoạt động thực thi quyền SHCN ngoài tác động tích cực còn có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh.

Tác động tiêu cực của quyền SHCN có thể xuất phát từ chính các quy định của pháp luật liên quan đến việc thừa nhận và bảo vệ sự độc quyền của nó hoặc có thể gây ra bởi hành vi lạm dụng của chủ sở hữu.

Nguy cơ gây hạn chế cạnh tranh khi thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên thực tế là có thực bởi chính những đặc trưng của quyền SHCN. Tuy nhiên, hành vi của chủ sở hữu quyền chỉ bị xem là vi phạm pháp luật cạnh tranh chỉ khi đó là kết quả của việc lạm dụng quyền, nghĩa là chủ sở hữu đã cố gắng mở rộng tính độc quyền của SHCN vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật và gây hạn chế cạnh tranh.

Về nguyên tắc, yếu tố đủ để đánh giá một hành vi cụ thể của chủ sở hữu là hành vi lạm dụng quyền SHCN chính là tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi đó. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng hành vi cụ thể của chủ thể mà tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi lạm dụng quyền SHCN sẽ được thể hiện khác nhau trên thực tế. Cụ thể, tác động hạn chế cạnh tranh có thể được thể hiện thông qua các khía cạnh sau:

– Lạm dụng quyền SHCN tạo ra rào cản gia nhập thị trường;

– Lạm dụng quyền SHCN ngăn cản quyền tự do giao kết hợp đồng;

– Lạm dụng quyền SHCN dẫn đến hậu quả loại bỏ đối thủ cạnh tranh;

– Lạm dụng quyền SHCN gây thiệt hại cho người tiêu dùng; 

Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh đối với hành vi lạm dụng quyền sở hữu công nghiệp

Điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh sẽ được xem xét đối với các hành vi thể hiện ý chí áp đặt của chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp. Hay nói cách khác đó là kết quả của việc lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ như: định giá bất hợp lý, từ chối chuyển giao, điều khoản bán kèm, yêu cầu chuyển giao ngược…

(1) Hành vi ấn định giá bán lại độc quyền trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

Ấn định giá bán lại hay còn được gọi là duy trì giá (resale price maintenance – RPM) được hiểu là hành vi bắt buộc các nhà phân phối, các nhà bán lẻ phải bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với một mức giá bắt buộc hoặc mức giá tối thiểu (hoặc tối đa). 

Cách thức ấn định giá bán lại hàng hóa – dịch vụ trong thực tế rất đa dạng, có thể bao gồm: 

– Mức giá cố định (fixing price)

– Mức giá tối thiểu (minimum prices)

– Mức giá tối đa (maximum prices)

Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018, mặc dù điều khoản ấn định giá là một điều khoản trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp nhưng đó là ý chí đơn phương, áp đặt của bên chuyển giao dựa trên sức mạnh về độc quyền quyền sở hữu công nghiệp. Vậy nên, trong hợp đồng chuyển giao quyềnSHCN, điều khoản ấn định giá bán hàng hóa, dịch vụ cần được xem xét là hành vi lạm dụng của bên chuyển giao áp đặt cho bên nhận chuyển giao theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 27.

Theo đó, pháp luật Việt Nam chỉ ngăn cản doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan “Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng”.

(2) Hành vi định hủy diệt trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

Hành vi định giá hủy diệt là hành vi ép giá diễn ra tại thị trường cuối nguồn bằng cách ấn định giá đầu ra (giá bán hàng hóa, dịch vụ chứa đựng quyền SHCN) quá thấp nhằm loại trừ khả năng cạnh tranh về giá của chủ thể nhận chuyển giao (đồng thời là chủ thể cạnh tranh ở thị trường cuối nguồn).

Với các cơ sở khoa học và pháp lý đã được thừa nhận thì bản chất bất hợp pháp của hành vi định giá hủy diệt là:

– Giá bán sản phẩm quá thấp

– Nhằm mục đích loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường hoặc ngăn cản đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường

Luật Cạnh tranh 2018 không đề cập trực tiếp đến hành vi hủy diệt. Tuy vậy, nếu dựa vào bản chất của vấn đề có thể nhận thấy rằng hành vi định giá hủy diệt được xem xét dưới dạng là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh theo quy định tại Khoản 1 Điều 27. Tuy nhiên, trong tương quan với quyền SHCN các tiêu chí để xác định tính bất hợp pháp của hành vi còn nhiều hạn chế như các xác định mức giá hủy diệt (dưới giá thành toàn bộ) hoặc cách thức xác định vị trí thống lĩnh của chủ sở hữu quyền SHCN. 

(3) Hành vi từ chối chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

Dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh, hành vi từ chối chuyển giao sẽ bị xem là hành vi vi phạm pháp luật nếu nó rơi vào trường hợp bắt buộc phải chuyển giao hoặc hành vi đó gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh. 

Với cách tiếp cận từ chối chuyển giao quyền SHCN là một trong những quyền được bảo hộ theo quy định của pháp luật, do đó, pháp luật không thể ngăn cản quyền từ chối chuyển giao quyền SNCN cho dù chủ thể nhận chuyển giao có là đối thủ cạnh tranh hay không. Tuy nhiên, Hiệp định TRIPS cũng đã trao cho các thành viên quyền áp dụng pháp luật cạnh tranh của quốc gia mình nhằm hạn chế các hành vi lạm dụng của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, vi phạm pháp luật cạnh tranh tại Điều 8 và 40 của Hiệp định. 

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi từ chối chuyển giao sẽ bị xem là hành vi vi phạm pháp luật nếu rôi vào các trường hợp liệt kê tại Khoản 1 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. 

Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của Điều 144 trong bối cảnh đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu và bảo vệ môi trường cạnh tranh cần phải xem xét, phân tích kỹ lưỡng các tình tiết của vụ việc trong mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của thị trường nhưng cũng không xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ thể cũng như không ngăn cản động lực đầu tư, sáng tạo của họ nhằm cân bằng lợi ích của các chủ thể trong mối quan hệ tổng hòa.

(4) Ràng buộc bán kèm (chuyển giao cả gói) trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

Bán kèm được hiểu một cách đơn giản là yêu cầu khách hàng phải mua kèm một hoặc một số sản phẩm với sản phẩm mình muốn mua. Do đó, dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh thì hành vi bán kèm có thể được xem là hành vi gây hạn chế cạnh tranh bởi nó có thể hạn chế sự lựa chọn của người mua (người nhận chuyển giao) đối với sản phẩm được bán kèm, đồng thời hành vi này sẽ làm cản trở sự gia nhập thì trường cũng như có thể loại bỏ sự cạnh tranh của các chủ thể đối với thị trường sản phẩm được bán kèm. Bởi lúc này các giao dịch đối với sản phẩm đó không còn được thực hiện trên cơ sở cung cầu.

Thỏa thuận bán kèm (chuyển giao cả gói) được điều chỉnh bởi cả Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2019) và Luật Cạnh tranh 2018. 

Dưới góc độ của Luật sở hữu trí tuệ thì điều khoản bán kèm là quy định mặc nhiên vi phạm và bị ngăn cấm trừ khi các bên chứng minh được nó là cần thiết phải ghi nhận theo quy định tại Khoản 2,3 Điều 144 Luật SHTT.

Trong khi đó, theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018, điều khoản bán kèm này được xem là thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác (bên được chuyển quyền) điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng theo quy định tại khoản 8 Điều 11 và sẽ bị ngăn cấm khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chếcạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. 

(5) Yêu cầu chuyển giao ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

Chuyển giao ngược (Grant back) là một điều khoản, theo đó bên chuyển giao có quyền yêu cầu bên nhận chuyển giao phải chuyển lại tất cả các cải tiến công nghệ hoặc các ứng dụng liên quan được bên nhận chuyển giao phát triển từ công nghệ được chuyển giao trong suốt thời hạn chuyển giao. 

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc ghi nhận điều khoản chuyểngiao ngược trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng quyền SHCN là quyền đương nhiên của bên chuyển giao nhằm đảm bảo độc quyền khai thác cho chủ sở hữu sáng chế cũng như tính đồng bộ của công nghệ trừ trường hợp yêu cầu chuyển giao đó phải được thực hiện miễn phí hoặc là căn cứ để ngăn cản bên nhận chuyển giao đăng ký bảo hộ đối với các cải tiến đã được mình thực hiện trong thời hạn chuyển giao.

Thực thi quyền sở hữu công nghiệp trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam 

Tại Việt Nam, các khía cạnh cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp hiện đang được điều chỉnh bởi Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Luật Cạnh Tranh 2018. Tuy nhiên, trên thực tế, giữa hai văn bản pháp luật này chưa có sự kết nối đồng bộ dẫn đến các quy định dẫn chiếu trở nên dở dang, hiệu quả thực thi không cao. Không chỉ ở khía cạnh cơ quan có thẩm quyền thực thi mà ngay các các quy định điều chỉnh cũng còn nhiều bất cập. Bởi lẽ, theo cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh 2018 thì quyền sở hữu công nghiệp là một trong những yếu tố tạo nên khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của các doanh nghiệp nắm giữ. Điều đó có nghĩa là việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các chủ sở hữu sẽ gây ra hành vi hạn chế cạnh tranh khi chủ sở hữu có sức mạnh thị trường đáng kể hoặc thị phần chiếm 30% trở lên, bất chấp đó là quyền đương nhiên của chủ sở hữu đã được luật sở hữu trí tuệ thừa nhận (tại Điều 20, 123, 143, 144 Luật Sở hữu trí tuệ 2005). Điều đó ít nhiều đã ảnh hưởng đến quyền của chủ sở hữu trong quá trình thực thi, khai thác các phát minh, sáng chế của mình. Bên cạnh sự thiếu kết nối đồng bộ về nội dung thì hiệu quả thực thi qua lại giữa hai văn bản pháp luật này còn kém hiệu quả. 

Như vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ không chỉ bảo vệ độc quyền của chủ sơ hữu đối tượng sở hữu công nghiệp. Trên nền tảng của quyền tự do kinh doanh, quyền độc quyền, chủ sở hữu quyền SHCN được quyền sử dụng hoặc ngăn cấm người khác sử dụng tài sẩn SHCN của mình, bao gồm chuyển giao quyền SHCN. Tuy nhiên, hoạt động khai thác thương mại của quyền SHCN sẽ phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành có liên quan, trong đó vai trò quan trọng thuộc về pháp luật cạnh tranh nhằm đảm bảo thiết lập, duy trì thị trường có tính cạnh tranh. Mục đích cuối cùng mà pháp luật cạnh tranh hướng tới cũng là bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Pháp luật SHTT và pháp luật cạnh tranh tuy khác nhau về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, cơ chế áp dụng như có chung mục đích, không đối lập mà bổ sung cho nhau. Pháp luật đồng thời sẽ bảo vệ tự do cạnh tranh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và quyền tự do trong chuyển giao đối tượng quyền SHCN – tính “chủ quyền” hay “độc quyền” của chủ sở hữu nhưng sự bảo hộ này sẽ chịu sự can thiệp của pháp luật cạnh tranh nhằm bảo đảm phúc lợi chung, góp phần thiết lập thị trường công bằng, bình đẳng, có tính cạnh tranh cao.

_________________________________

Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ :

CÔNG TY LUẬT TNHH APRA

Địa chỉ: Tầng 7, số 57 Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.

Email: info@apra.vn

Hotline: 024.23486234 – 0948495885

Có thể bạn quan tâm

1 bình luận

open a binance account 30/03/2025 - 5:13 chiều

I don’t think the title of your article matches the content lol. Just kidding, mainly because I had some doubts after reading the article.

Phản hồi

Để lại bình luận

0948 49 5885